Giới thiệu đá Aragonite
Aragonite là một dạng khoáng vật nhóm cacbonat. Nó và khoáng vật canxit là hai dạng phổ biến nhất, có nguồn gốc tự nhiên của CaCO3, cacbonat canxi. Mạng tinh thể của aragonite khác với mạng tinh thể của canxit, kết quả là hình dạng tinh thể khác hẳn, đó là một hệ thống hình thoi trực tâm với những tinh thể hình kim. Bằng cách cặp đôi các tinh thể lặp lại thì nó tạo ra dạng giả lục giác. Nó có thể là hình trụ hay dạng sợi, thỉnh thoảng tạo nhánh dạng vú đá gọi là flos-ferri (hoa sắt) do liên kết của chúng với quặng tại mỏ sắt Carthinia. Khu vực điển hình của aragonite là Molina de Aragón (Guadalajara, Tây Ban Nha), cách Aragon khoảng 25 km. Một hang động toàn aragonite là hang Ochtiná Aragonit) tại Slovakia. Tại Hoa Kỳ, aragonite dạng vú đá có tại hang Carlsbad.
Aragonite tạo thành dạng tự nhiên ở gần như phần lớn các mai, vỏ của động vật thân mềm. Do sự tích lũy khoáng chất tại mai động vật thân mềm được kiểm soát sinh học rất mạnh bởi vậy một số dạng tinh thể là khác biệt với các dạng tinh thể aragonite nguồn gốc vô cơ. Ở một số động vật thân mềm, toàn bộ mai là aragonite; ở những loài khác, aragonite tạo thành các bộ phận rời rạc của lớp mai hai khoáng chất (aragonit và canxit). Aragonite cũng được tạo thành trong lòng đại dương và trong các hang động dưới dạng các chất vô cơ kết tủa, được gọi tương ứng là xi măng đại dương, speleothem. Lớp xà cừ các mai, vỏ hóa thạch chứa aragonite của một số dạng cúc (ngành Mollusca, phân lớp Ammonodea) đã tuyệt chủng tạo nên một loại vật liệu óng ánh gọi là ammolit. Ammolit chủ yếu là aragonite với một ít tạp chất làm cho nó óng ánh và như thế nó có giá trị như một loại đá quý.
Aragonite là không ổn định về mặt nhiệt động lực học ở điều kiện tiêu chuẩn, và có xu hướng biến đổi thành canxit trong khoảng thời gian khoảng 10 đến 100 triệu năm.
Lịch sử và truyền thuyết
Aragonite được phát hiện bởi Anselmus Boëtius de Boodt vào năm 1609. Nhà khoáng vật học nổi tiếng này sau đó đã đặt cho nó cái tên ‘stillatitius lapis’. Hình dạng tự nhiên của nó giống như một bó hoa với các gai màu trắng, xanh lam, xanh lá cây hoặc nâu khác nhau, sau này được đặt cho biệt danh là ‘hoa sắt’. Hơn nữa, loại đá phong phú này vẫn chủ yếu được sử dụng để làm các đồ vật trang trí, cũng như đồ trang sức cho trang phục.
Năm 1797, Abraham Gottlob Werner đổi tên nó thành aragonite (tên hiện tại) theo tên quê hương của ông, nằm gần Aragon ở Tây Ban Nha.
Loại đá này là vô giá đối với các nhà khoa học vì nó nhạy cảm với mức CO2 cao. Do đó, nó cung cấp thông tin có giá trị về quá trình axit hóa đại dương thông qua mạng tinh thể của nó. Đó là một dấu hiệu của sức khỏe nước mặn tốt.
Tổng quan về đặc tính của đá Aragonite
Tên hóa học: CaCO3
Tinh hệ: Trực thoi
Độ cứng: 3,5-4,0
Tỷ trọng: 2,95
Cát khai: Trung bình
Vết: vỡ Á vỏ sò
Màu sắc: Từ trắng, trắng phớt vàng đến lục nhạt, nâu nhạt và tím
Màu vết vạch: Trắng
Ánh: Á thủy tinh
Phân bố trên thế giới: Tây Ban Nha, Ukraina, Hy Lạp, Nga…
Tác dụng và ý nghĩa đá Aragonite
Tác dụng:
- Đá aragonite có một số tác dụng về năng lượng. Thật vậy, viên đá xoa dịu trí tuệ và nâng cao tinh thần này hoạt động trên nhiều vấn đề. Nó chủ yếu:
Làm dịu kích động, lo lắng, căng thẳng và những nỗi sợ hãi chôn giấu
Mang lại sự bình yên trong nội tâm và ổn định tinh thần
Cho phép những người gặp khó khăn trong việc nói ra có thể nói chuyện thoải mái hơn
Giúp một người quản lý cảm xúc tiêu cực và tiêu cực
Cải thiện sự tập trung
Hỗ trợ rối loạn thần kinh - Khả năng làm ấm: Nhờ khả năng làm ấm mạnh mẽ, aragonite đặc biệt được khuyên dùng cho những người bị lạnh. Đơn giản bằng cách đặt nó vào những nơi lạnh giá, nó sẽ thúc đẩy lưu thông máu, và do đó dần dần làm tăng nhiệt độ cơ thể.
Ý nghĩa:
Đá Aragonite được xem là đá của sự may mắn và vui vẻ cho gia đạo. Chúng giúp cho giữ vững sự nhẹ nhàng trong tâm hồn và ổn định về tâm lý. Nhiều người tin rằng đá aragonite rất tốt cho việc thiền định. Aragonite đại diện cho chòm sao Song Ngư trong 12 cung hoàng đạo. Năng lượng âm và không xác định tác động cụ thể đến luân xa.