‘Mỗi năm Việt Nam có khoảng 40.800 bé gái không được sinh’

Theo bà Hà Thị Quỳnh Anh, Chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA, báo cáo Dân số thế giới năm 2020 cho thấy, mỗi năm Việt Nam có khoảng 40.800 bé gái không được sinh.

Con số bà Quỳnh Anh đưa ra trong buổi tư vấn trực tuyến “Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh” tại VnExpress vào ngày 6/10, được tính dựa trên sự khác biệt giữa con số ước tính trẻ em gái phải được sinh ra theo quy luật tự nhiên và số trẻ em gái thực tế được sinh ra trong một năm.

Theo ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, tại Việt Nam, nguyên nhân cơ bản khiến tỷ lệ bé trai nhiều hơn bé gái là nền văn hóa truyền thống với tư tưởng Nho giáo đóng vai trò chủ đạo. Một trong những giá trị quan trọng của tư tưởng này là có con trai để nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ. Trả lời độc giả, Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Duy Ánh – Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho rằng, cả nam giới và nữ giới nên lựa chọn độ tuổi sinh con tốt nhất. Với nữ là từ 25-35 tuổi, nam từ 25 đến 50 tuổi. Dưới đây là nội dung buổi tư vấn:

– Với tình hình ở Việt Nam hiện nay, trẻ em gái đang gặp phải những vấn đề gì là chủ yếu? (Thu Hằng, 27 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh, Chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA về Giới và Nhân quyền:

Tôi xin trả lời câu hỏi với góc nhìn của chuyên gia về giới và nhân quyền. Từ góc nhìn này, hiện nay trẻ em gái ở Việt Nam đang gặp phải nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ ở hiện tại và tương lai.

Vấn đề đầu tiên là những định kiến giới, tâm lý yêu thích con trai hơn con gái. Nên rất nhiều gia đình chọn sinh con trai thay vì con gái. Vì vậy, rất nhiều trẻ em gái đã không được sinh ra. Theo Báo cáo Dân số thế giới năm 2020, mỗi một năm ở Việt Nam có khoảng 40.800 trẻ em gái không được sinh ra. Con số này được tính dựa trên sự khác biệt giữa con số ước tính trẻ em gái phải được sinh ra theo quy luật tự nhiên và số trẻ em gái thực tế được sinh ra trong một năm.

Vấn đề thứ hai là, khi lớn lên các em phải đối mặt với vấn đề xâm hại tình dục trẻ em hoặc bạo lực với trẻ em. Vào tháng 7, quỹ dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam đã công bố Báo cáo Điều tra quốc gia về Bạo lực với phụ nữ tại Việt Nam được thực hiện bởi Bộ LĐTBXH, Tổng cục Thống kê và với sự hỗ trợ kinh phí của DFAT và hỗ trợ kỹ thuật và kinh phí của Quỹ Dân số Liên hợp quốc. Báo cáo này cho thấy, 4,4% trẻ em tại Việt Nam đã bị xâm hại tình dục trước năm 15 tuổi. Có đến 9% và 11% phụ nữ bị bạo lực tình dục và thể xác do người khác gây ra từ khi 15 tuổi.

Vấn đề thứ ba là, kết hôn sớm. Hiện nay, ở Việt Nam tỉ lệ kết hôn sớm lớn hơn 10%. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng một trong những nguyên nhân chủ chốt vẫn là bất bình đẳng giới.

Vấn đề thứ tư, trẻ em gái ở Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề mua bán trẻ em gái và phụ nữ vì mục đích bóc lột lao động và tình dục.

Những vấn đề nêu trên ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ em gái. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trẻ em gái bị xâm hại hoặc bạo lực tình dục có nguy cơ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về sức khỏe như: Sức khỏe sinh sản, tình dục, mang thai sớm, gặp vấn đề sức khỏe tâm thần… Điều này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của trẻ trong tương lai.

3 chuyên gia có mặt tại tòa soạn VnExpress để tham gia buổi tư vấn trực tuyến ‘Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh’.

– Xin ông Hoàng cho biết tình trạng, nguyên nhân mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam? (Tuyết Ngân, 30 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế:

Các số liệu thống kê về tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) cho thấy tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) ở Việt Nam xuất hiện muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh hơn so với một số nước châu Á.

Trong giai đoạn 1979-1999, theo số liệu Tổng điều tra dân số từ năm 1979 đến nay, Việt nam chưa xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh . Tỷ số giới tính khi sinh là 105 bé trai/100 bé gái (1979), 106 bé trai/100 bé gái (1989) và 107 bé trai/100 bé gái (1999) vẫn trong mức cân bằng. Vấn đề MCBGTKS thực sự trở thành thách thức với công tác dân số từ năm 2006 khi tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 và luôn ở ngưỡng trên 111 bé trai/100 bé gái (trừ năm 2009, tỷ số giới tính khi sinh có giảm nhẹ xuống 110,5 bé trai/100 bé gái) và có sự tăng giảm không ổn định. Năm 2010 là 111,2 bé trai/100 bé gái; năm 2015 là 112,8 bé trai/100 bé gái và năm 2019 là 111,5 bé trai/100 bé gái.

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số các nước khác nhưng có những đặc điểm riêng khiến cho tỷ số giới tính khi sinh ở mức cao và diễn biến khá phức tạp:

– Tỷ số giới tính khi sinh luôn ở mức cao và lan rộng: Từ năm 2006 đến nay, TSGTKS luôn ở mức trên 111 bé trai/100 bé gái (trừ năm 2009, TSGTKS có giảm nhẹ xuống 110,5 bé trai/100 bé gái) và có sự tăng giảm không ổn định.
MCBGTKS xảy ra ở cả thành thị và nông thôn (Năm 2019, theo số liệu của Tổng cục thống kê, thành thị là 110,8 bé trai/100 bé gái và nông thôn là 111,8/100 bé gái).

Xét ở phạm vi vùng kinh tế- xã hội thì đến năm 2019, chỉ có một vùng có tỷ số giới tính khi sinh ở ngưỡng an toàn là Đồng bằng sông Cửu Long (với tỷ số giới tính khi sinh là 106,9 bé trai/100 bé gái, tuy vẫn ở ngưỡng an toàn nhưng đang gần tiệm cận với mức mất cân bằng trên -107 bé trai/100 bé gái). Các vùng còn lại đều đang đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh , đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Hồng tỷ số này ở mức rất cao là 115,5 bé trai/100 bé gái. Hầu hết các tỉnh có TSGTKS cao nằm ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc. Một số tỉnh có TSGTKS cao trên 120 bé trai/100 bé gái là như Sơn La, Hòa Bình, Bắc Giang, Hưng Yên, Hà Nam, Bà Rịa – Vũng Tàu.

– Mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra ngay ở lần sinh thứ nhất, đặc biệt cao ở lần sinh thứ 3 trở lên: Theo số liệu ca sinh trong giai đoạn 2010-2014, TSGTKS của lần sinh thứ nhất là 110 bé trai/100 bé gái tại Việt Nam; không tăng đối với những ca sinh ở lần sinh thứ 2 và chỉ tăng ở lần sinh tiếp theo như lần sinh thứ 3 trở lên ở mức 119 bé trai/100 bé gái.

– Mức độ mất cân bằng giới tính khi sinh cao hơn nhiều ở những cặp vợ chồng có trình dộ học vấn cao, tình hình kinh tế khá giả: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, TSGTKS các ca sinh giai đoạn 2010-2014, TSGTKS thấp nhất (106 bé trai/100 bé gái) ở nhóm các bà mẹ không biết chữ; trình độ học vấn của phụ nữ tăng lên tương ứng TSGTKS cũng tăng lên từ mức 106 bé trai/100 bé gái đến 115 bé trai/100 bé gái ở bậc đại học. Bên cạnh đó, nhóm nghèo nhất trong năm 2014 có TSGTKS ở mức 107 bé trai/100 bé gái, gần với mức sinh học tự nhiên và cao nhất ở mức 113 bé trai/100 bé gái đối với nhóm giàu nhất.

Có 3 nhóm nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, trong đó:

– Nguyên nhân cơ bản: Do Việt Nam là một quốc gia châu Á có nền văn hóa truyền thống với tư tưởng Nho giáo đóng vai trò chủ đạo. Một trong những giá trị quan trọng của tư tưởng này là việc có con trai để nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ.

– Nguyên nhân phụ trợ: Do hiện nay quy mô gia đình nhỏ ngày càng trở nên phổ biển, mỗi cặp vợ chồng thường sinh 1-2 con nhưng mong muốn trong số đó phải có con trai. Vì vậy, họ đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh để đáp ứng được cả hai nhu cầu trên. Bên cạnh đó, nhu cầu phát triển ở một số vùng đòi hỏi nhiều lao động nam; chế độ an sinh xã hội chưa đảm bảo, tỷ lệ có lương hưu đặc biệt ở nông thôn khi về già là rất thấp nên cần sự chăm sóc của con cái, theo quan niệm truyền thống thuộc về người con trai trong gia đình.

– Nguyên nhân trực tiếp: Là việc lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh, trong lúc thụ thai hoặc khi đã có thai để chẩn đoán giới tính.

Như vậy, nguyên nhân cốt lõi dẫn đến vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh chính là định kiến giới, tâm lý ưa thích con trai hơn con gái vẫn luôn tồn tại mãnh liệt cho mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng, mỗi gia đình và mỗi dòng họ. Tư tưởng đó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân và trở thành quan niệm truyền thống của người Việt Nam.

Ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế.

– Nhiều năm trong nghề, bác sĩ Ánh có thấy hiện nay có sự thay đổi trong quan niệm về bé trai – gái? Dường như người dân đang thích sinh con gái hơn? (Phương Thùy, 25 tuổi)

– Bác sĩ Nguyễn Duy Ánh – Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội:

Tôi chưa thấy rõ điều đó. Người dân ai cũng thích có cả trai lẫn gái và có xu
hướng rõ là như vậy. Nên nếu đã có con trai rồi thì rất thích có con gái chứ không như trước đây thích nhiều “Đinh” tức nhiều con trai càng tốt nữa.

– Bà có những đề xuất gì để bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em gái trong các lĩnh vực: giáo dục, sức khỏe, phòng chống bạo lực gia đình, phòng chống buôn người, xâm hại tình dục…. (Thu Hằng, 27 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Có rất nhiều việc cần phải làm nhằm bảo vệ trẻ em gái khỏi những vấn đề do bất bình đẳng giới gây ra. Việc đầu tiên là trong lĩnh vực giáo dục, phải đưa những nội dung giáo dục về giới, bình đẳng giới và giới tính vào trong trường học. Điều này giúp các em có được những kiến thức và kỹ năng để tự phòng tránh và bảo vệ bản thân. Đồng thời, giúp trẻ em trai có những thái độ, hành vi bình đẳng, tôn trọng và không sử dụng bạo lực với bạn gái trong hiện tại và phụ nữ trong tương lai.

Trong lĩnh vực Y tế, phải đảm bảo có dịch vụ y tế nhạy cảm giới để có thể tiếp nhận và cung cấp dịch vụ hỗ trợ y tế với các nạn nhân bị xâm hại, quấy rối hoặc bạo lực tình dục. Điều này rất quan trọng vì nếu người cung cấp dịch vụ y tế không có kiến thức có thể làm cho nạn nhân bị bạo lực thêm lần thứ hai. Nạn nhân có thể bị phân biệt đối xử. Trong nhiều trường hợp, nạn nhân tiếp tục im lặng, không tố cáo hành vi xâm hại, bạo lực.

Bên cạnh đó, các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn cho trẻ em gái có nguy cơ hoặc bị xâm hại, bạo lực tình dục cũng rất quan trọng. Các trung tâm hỗ trợ một cửa cần phải được xây dựng và đưa vào vận hành hiệu quả để nạn nhân bị xâm hại, quấy rối có thể tiếp cận các dịch vụ đạt chuẩn quốc tế. Tương tự như vậy, các dịch vụ để bảo vệ và hỗ trợ trẻ em gái là nạn nhân của xâm hại, bạo lực tình dục, mua bán người như: Công an, tư pháp… cũng cần đảm bảo có tính nhạy cảm giới và cung cấp dịch vụ đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế.

Hiện nay, Bộ LĐTBXH có đường dây nóng hỗ trợ nạn nhân 111, ngành Giáo dục có thông tư về xây dựng môi trường học tập an toàn, lành mạnh không bạo lực… Gần đây, hội đồng Thẩm phán – Tòa án Nhân dân tối cao có nghị quyết về giải quyết xâm hại tình dục trẻ em… Tất cả công việc này cần được tiếp tục đẩy mạnh nhằm đảm bảo trẻ em gái được sinh ra và phát triển trong một môi trường không bạo lực.

– Là Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, ông có thể cho biết, tỷ lệ sản phụ sinh mổ gia tăng như thế nào trong các năm gần đây? Tỷ lệ này tăng như thế nào so với những năm 90 thế kỷ trước? Vì sao có sự gia tăng đó? Xin ông cho biết, sinh mổ được chỉ định trong các trường hợp nào? Những nguy cơ do sinh mổ? Sinh thường có những ưu điểm nào tốt cho mẹ và bé mà sinh mổ ko thay thế được? (Hoàng Thúy, 39 tuổi)

– Bác sĩ Nguyễn Duy Ánh – Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội:

Tỷ lệ mổ đẻ tăng lên khá nhiều trên toàn thế giới chứ không riêng gì ở Việt Nam, tăng gấp đôi so với những năm 90 của thế kỷ trước. Những lý do chính của sự gua tăng tỷ lệ này là do kỹ thuật mổ đẻ đã rất hoàn hảo, từ cả phía gây mê gây tê cho đến bên sản khoa. Hai nữa là tỷ lệ thai to thai bệnh lý nhiều hơn và yêu cầu cao hơn về kết cục nhưng thai nhi nói chung cà thai bệnh lý nói riêng. Ngoài ra cũng còn do các lý do chọn ngày chọn giờ, phụ nữ sợ đẻ, sợ ảnh hưởng sàn chậu khi đẻ, những trường hợp thai là kết quả từ các kỹ thuật nhân tạo gọi là hiếm quý dễ nghiêng về mổ và còn mổ chủ động… Các chỉ định mổ đều rất rõ ràng và chặt chẽ, phải là từ các lý do về phía mẹ, phía thai, hay phía phần phụ của thai. Bây giờ thêm cả lý do gọi là lý do xã hội. Nên biết rằng mổ đẻ có những nguy cơ và hệ luỵ. Nguy cơ và sự cố y khoa của mổ đẻ cho cả sản phụ và thai nhi không hề ít hơn đẻ thường. Hơn nữa mổ đẻ làm yếu tử cung cho những lần có thai sau, hoặc khó có thai lại hoặc có thai mà khó giữ hoặc khó xử lý nếu muốn kế hoạch. Thai lần sau có thể làm tổ trên sẹo mổ để thành rau tiền đạo, rau cài răng lược rất nguy hiểm lúc thai kỳ. Trong khi đẻ thường sản phụ rất nhanh bình phục hơn, ảnh hưởng với sàn chậu hoàn toàn có thể bình phục nếu đỡ đẻ tốt và sau đẻ có chế độ nghỉ dưỡng tập luyện đúng. Thai nhi được đẻ đường âm đạo không phải chịu tác động thuốc mê thuốc tê và kháng sinh như mổ đẻ thai nhi đẻ đường âm đạo thích nghi nhanh hơn và sức đề kháng tốt hơn, điều này đã được chứng minh.

READ  Tỷ lệ sinh ở Mỹ đạt mức thấp nhất mọi thời đại vào năm 2016

Bác sĩ Nguyễn Duy Ánh – Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội

– Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới như thế nào? Chúng ta có từng tham khảo bài học từ các nước không, cụ thể kinh nghiệm của các quốc gia đó như thế nào? (Hương Trà, 35 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, ở khu vực châu Á, tỷ số giới tính khi sinh của Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ đã dần tăng lên, tiếp theo đến các nước vùng Cáp-ca (Gruzia, Azerbaijan và Armenia) vào thập niên 90 của thế kỷ 20. Sau cùng là các nước Montenegro, Albania và Việt Nam.

Tại Hàn Quốc, tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) đã lên tới mức 115 bé trai/100 bé gái vào cuối những năm 1990. Nhưng từ năm 2000 đến nay, Hàn Quốc đã khống chế thành công tốc độ gia tăng TSGTKS và đưa tỷ số này về mức cân bằng tự nhiên là 105 bé trai/100 bé gái.

Tại Trung Quốc, cũng tương tự như Hàn Quốc, TSGTKS đã lên tới mức 115 bé trai/100 bé gái vào cuối những năm 1990, nhưng hiện nay TSGTKS của Trung Quốc vẫn duy trì ở mức cao, vẫn ở mức 111,9 bé trai/100 bé gái (2017) mặc dù có giảm nhẹ từ đỉnh cao nhất là gần 120,5 bé trai/100 bé gái năm 2005.

Tại Ấn Độ, mức độ MCBGTKS có thấp hơn so với Trung Quốc. TSGTKS của Ấn Độ tăng lên đến 113,3 bé trai/100 bé gái trong giai đoạn 2001 – 2006, và hiện nay tỷ số này giảm xuống còn 111,6 bé trai/100 bé gái giai đoạn 2015-2017.

Tại Việt Nam, xu hướng gia tăng TSGTKS cũng được quan sát thấy trong hơn thập kỷ qua. MCBGTKS ở Việt Nam xuất hiện muộn nhưng tốc độ gia tăng nhanh hơn so với một số nước châu Á. Việt Nam chính thức mất cân bằng giới tính khi sinh từ năm 2006 khi TSGTKS tăng lên 109,8 bé trai/100 bé gái và luôn ở ngưỡng trên 111 bé trai/100 bé gái (trừ năm 2009, TSGTKS có giảm nhẹ xuống 110,5 bé trai/100 bé gái) và có sự tăng giảm không ổn định. Năm 2010 là 111,2 bé trai/100 bé gái; năm 2015 là 112,8 bé trai/100 bé gái và năm 2019 là 111,5 bé trai/100 bé gái.

Kinh nghiệm của các nước nhằm giảm thiểu tình trạng MCBGTKS: Khi xảy ra tình trạng MCBGTKS, chính phủ các nước đều đã có những chính sách và can thiệp tích cực nhằm đưa TSGTKS trở lại mức cân bằng tự nhiên. Việt Nam cũng đã nghiên cứu các chính sách và kinh nghiệm của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ. Đặc biệt là các nước có đặc điểm văn hóa tương đồng như Hàn Quốc và Trung Quốc. Nói chung, các giải pháp can thiệp của các nước có thể được tổng hợp thành ba nhóm giải pháp chính:

– Nhóm giải pháp thứ nhất: Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức của của người dân, người cung cấp dịch vụ và cộng đồng về thực trạng, nguyên ngân và hệ luỵ của MCBGTKS.

– Nhóm giải pháp thứ hai: Điều chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tăng nặng chế tài xử lý việc lạm dụng kỹ thuật để xác định và lựa chọn giới tính thai nhi, phá thai vì lựa chọn giới tính; tổ chức thực hiện nghiêm các quy định cảu pháp luật về lựa chọn giới tính thai nhi.

– Nhóm biện pháp thứ ba: thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội nhằm vào việc cải thiện vấn đề bình đẳng giới, nâng cao địa vị phụ nữ trong xã hội, từng bước khắc phục tư tưởng trong nam, khinh nữ; xây dựng và ban hành các hệ thống an sinh xã hội, đề án phúc lợi kinh tế có chú trọng đến đối tượng là phụ nữ và trẻ em gái.

Các nước còn tăng cường sự lãnh đạo và tổ chức cơ quan chuyên trách làm công tác dân số. Hàn Quốc tăng cường hệ thống tổ chức thực hiện và quản lý chương trình dân số quốc gia. Tại Trung Quốc, Bí thư cấp ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

– Tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã có những biện pháp cụ thể gì để giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh? (Hữu Sơn, 32 tuổi)

– Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Duy Ánh – Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội:

Tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội không áp dụng các biện pháp sinh con theo ý muốn, không chẩn đoán xác định giới tính, và trong các chương trình giảng về sức khoẻ sinh sản bệnh viện đều chuyển tải thông điệp, sự sinh sản tự nhiên ắt sẽ cân bằng giới tính. Sự cố gắng đẻ con trai hầu hết rơi vào gia đình đã có 2, 3, con gái nên đó thực sự là nỗi vất vả, khó khăn về kinh tế khi đẻ thêm con cũng như rủi do về sức khoẻ cho người phụ nũ phải sinh đẻ thêm.

– Xin bà Quỳnh Anh đưa ra giải pháp đối với việc nhiều gia đình vẫn có tư tưởng phải sinh được con trai và có sự lựa chọn giới tính khi sinh ? (Hà Trang, 29 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Hiện nay có rất nhiều gia đình vẫn đang mang nặng tư tưởng phải sinh được con trai và từ đó thực hành sự lựa chọn giới tình khi sinh. Tư tưởng này xuất phát từ việc trọng nam khinh nữ đã hiện hữu trong suy nghĩ và thực hành của người dân Việt Nam từ hàng nghìn năm nay. Các gia đình muốn sinh con trai vì rất nhiều lí do khác nhau như: cần có người nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, tăng cường sức lao động và là chỗ dựa cho cha mẹ khi về già.

Vì vậy, việc thay đổi nó không dễ dàng và diễn ra một sớm một chiều. Nó đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, gia đình, cộng đồng và cả hệ thống. Có rất nhiều những can thiệp đã được những cơ quan Chính phủ, phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế thực hiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong thời gian tới chúng tôi tiếp tục khuyến nghị nên tập trung nhiều, nỗ lực hơn nữa trong việc truyền thông thay đổi chuẩn mực xã hội về bình đẳng giới. Đặc biệt là tập trung cho giới trẻ. Điều này rất có ý nghĩa vì theo điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ Việt Nam năm 2019, thái độ và hành vi về bình đẳng giới của phụ nữ giữa điều tra này và điều tra tương tự thực hiện năm 2010 chỉ có sự thay đổi đáng kể ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi hơn.

Để có thể thay đổi chuẩn mực xã hội về giới nên có các can thiệp sau:

Thứ nhất là truyền thông thay đổi hành vi, xóa bỏ các định kiến giới và xây dựng các chuẩn mực mới về giới: Xây dựng các hình mẫu nam tính và nữ tính tích cực. Ví dụ như nam giới sẵn sàng chia sẻ công việc nhà với phụ nữ. Phụ nữ có thể làm những công việc trước đây thường được nghĩ chỉ có nam giới mới làm được như: phi hành gia, phi công, lãnh đạo quốc gia…

Xây dựng những chuẩn mực về giới mới ở trong gia đình: Con cái sinh ra có thể mang họ mẹ. Dù pháp luật quy định con cái sinh ra có thể mang họ cha hoặc mẹ nhưng phần lớn con cái sinh ra mang họ cha và việc này cũng cần được thay đổi. Con gái hoặc phụ nữ trong gia đình có thể thờ cúng tổ tiên, có thể đứng ra tổ chức tang lễ cho bố mẹ, người thân khi qua đời. Thúc đẩy thực hiện chính sách pháp luật như cả vợ và chồng cùng đứng tên trên sổ đỏ, con trai con gái cùng có quyền thừa kế như nhau…

Tăng cường vị thế trong gia đình và xã hội thông qua thúc đẩy bình đẳng giới. Việc này có thể được thực hiện thông qua chỉnh sửa và thúc đẩy triển khai chính sách liên quan như: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào chính trị, đảm bảo tuổi nghỉ hưu giống nhau cho cả nam và nữ.

Thúc đẩy sự tham gia của nam giới trong các hoạt động về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực với phụ nữ, trẻ em gái. Ví dụ như hiện nay Quỹ Dân số liên hợp quốc đang hỗ trợ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, tổ chức CSAGA, CCIHP triển khai thí điểm chương trình “Người cha trách nhiệm” nhằm thu hút sự tham gia của nam giới trẻ, lần đầu làm cha, tham gia các CLB sinh hoạt hàng tháng và cùng cam kết thực hiện các hành vi bình đẳng giới, tôn trọng quyền của phụ nữ và trẻ em.

Một việc nữa rất cần thực hiện là xây dựng và triển khai chính sách bảo trợ xã hội cho người cao tuổi. Điều này rất có ý nghĩa vì nhiều gia đình mong muốn sinh con trai để có chỗ dựa khi về già.

Bà Hà Thị Quỳnh Anh, Chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA về Giới và Nhân quyền.

– Xin Phó giáo sư, tiến sĩ Ánh cho biết, những vấn đề thực trạng về mất cân bằng giới tính tại Việt Nam so sánh với tỷ lệ sinh ở bệnh viện thống kê qua các năm thì có trùng khớp hay không? (nếu có sự sai lệch thì vì sao?) (Tường Lan, 22 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Bệnh viện thì không làm thống kê này nhưng nếu có thống kê thì cũng có thể sai
lệch với thống kê khi điều tra dân số vì số người đẻ ở Bệnh viện Phụ sản Hà Nội không thể đại diện được.

– Xin cho biết, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội thực hiện quy định không chẩn đoán, không xác định giới tính thai nhi như thế nào? Nếu vi phạm, có bị xử lý không? Làm sao để kiểm soát được việc thực hiện các quy định này? Giám đốc Bệnh viện có khẳng định 100% bác sĩ, nhân viên y tế liên quan kỹ thuật này đã tuân thủ đầy đủ các quy định không? (Lan Phương, 25 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Bệnh viện Phụ sản HN khẳng định đang thực hiện rất nghiêm quy định không chẩn đoán xác định giới tính và tất nhiên cá nhân ai vi phạm sẽ bị kỷ luật theo quy định. Không ai được trả lời thai là trai hay gái nhất là khi thai kỳ chưa phải là sắp đẻ hoặc có các bất thường dị dạng sinh dục.
Việc kiểm soát không gì khác bằng nhắc nhở, giám sát kiểm tra đột xuất và
mọi cán bộ biết rõ hình thức kỷ luật và sẽ kỷ luật nghiêm nếu vi phạm. Nói là vậy, quy định là vậy nhưng không dễ kiểm soát khi mà các nhân viên không thực sự có trách nhiệm với chính mình, với tình hình mất cân bằng giới tính hiện nay của chúng ta. Họ có thể có nhiều cách để thông báo giới tính thai nhi với sản phụ mà không ai nói gì được. “Lời nói gió bay” mà và còn nói lái nói bóng gió kiểu cháu giống ai, giống bố hay giống mẹ.

– Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính, ở góc độ công tác ở nơi thường xuyên tiếp xúc với các ông bố, bà mẹ đang trên hành trình mang thai và sinh con thì theo bác sĩ Ánh nguyên nhân căn bản về phía các bậc cha mẹ là gì? (Hải, 26 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Đúng là có thể có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới
tính ở một quốc gia, nhưng nguyên nhân căn bản về phía các gia đình, các ông bố là vẫn có tâm lý đẻ con trai mới bằng chúng bằng bạn mới là đàn ông, mới vừa lòng các cụ, mới có người nối dõi. Con gái lấy chồng theo nhà chồng và chồng sau này lúc tuổi già khó cậy nhờ khó bảo nó ở với mình được.

Theo bác sĩ Ánh, nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính nhưng nguyên nhân căn bản nhiều gia đình, vẫn có tâm lý bằng mọi giá đẻ con trai.

– Có vị chuyên gia từng nói vui khi Việt Nam thừa vài triệu đàn ông có thể phải nhập khẩu cô dâu từ châu Phi do các nước thiếu phụ nữ thường phải nhập khẩu cô dâu từ những nước nghèo hơn. Thực tế có nghiêm trọng đến mức như thế không? (Hương Trà, 35 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Tình trạng MCBGTKS có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường về mặt xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị… Trước hết, MCBGTKS sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam thiếu nữ trong độ tuổi kết hôn, từ đó, gây ra việc tan vỡ cấu trúc gia đình. Một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không có khả năng kết hôn. Việc gia tăng tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) làm gia tăng thêm sự bất bình đẳng như: nhiều phụ nữ kết hôn sớm, tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao, tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ có nguy cơ tăng cao.

Các chuyên gia quốc tế đã dự báo nếu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) không được kiểm soát, đến năm 2050, Việt Nam sẽ dư thừa khoảng 2,3 đến 4,3 triệu nam giới. Như vậy, việc nhập khẩu cô dâu từ các quốc gia khác là điều trên thực tế có thể xảy ra (bài học của Trung Quốc, Hàn Quốc).

Chúng tôi tin tưởng rằng với việc triển khai toàn diện, đồng bộ và quyết liệt các giải pháp can thiệp của Chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030 được ban hành theo Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ, Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2025 (theo Quyết định số 486/QĐ-TTg ngày 23/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ) thì Việt Nam sẽ khống chế thành công tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, đưa tỷ số này về mức cân bằng tự nhiên và việc nhập khẩu cô dâu sẽ không xảy ra.

READ  2001 Mệnh Gì, Tuổi Con Gì ❤️️ Bộ Tử Vi Sinh Năm Tân Tỵ

– Bà đánh giá thế nào về thực trạng lựa chọn giới tính khi sinh trên cơ sở định kiến giới hiện nay tại Việt Nam? (Mỹ Dung, 29 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Theo báo cáo dân số thế giới năm 2020 do Qũy Dân số Liên hợp quốc công bố, Việt Nam là một trong ba quốc gia đang có tỉ số mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất. Cụ thể: Việt Nam là 111.5 (2019) chỉ đứng sau Trung Quốc 111.9, Ấn Độ 111.6. Trong khi tỉ số giới tính khi sinh ở mức tự nhiên chỉ là 103 – 105 trẻ em trai được sinh ra sống trên 100 trẻ em gái. Và cũng theo báo cáo này thì mỗi năm Việt Nam bị thiếu hụt 40.800 trẻ em gái.

Mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra do việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Nguyên nhân sâu xa, gốc rễ của vấn đề này chính là bất bình đẳng giới, trọng nam khinh nữ. Bên cạnh đó, cũng có thêm các yếu tố tác động làm cho vấn đề này ngày càng trầm trọng thêm. Thứ nhất là sự sẵn có của các công nghệ để các gia đình lựa chọn giới tính trước khi sinh. Thứ hai là quy mô gia đình nhỏ buộc các gia đình phải lựa chọn có ít nhất một đứa con trai. Điều này càng thể hiện rõ ở Việt Nam khi mà tỉ số giới tính khi sinh bị mất cân bằng ngay từ đứa con đầu tiên.

Lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới gây ra nhiều hiệu quả nghiêm trọng với phụ nữ, nam giới, gia đình và toàn xã hội. Với phụ nữ thì áp lực phải sinh bằng được con trai khiến họ phải nạo, phá thai hoặc sinh con nhiều lần (đến khi có được con trai thì thôi). Ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần, sức khỏe sinh sản và tình dục của phụ nữ. Đồng thời việc thiếu hụt phụ nữ nên phụ nữ dễ trở thành nạn nhân bạo lực tình dục, mua bán vì mục đích bóc lột tình dục. Bên cạnh đó, vì thiếu hụt phụ nữ nên nam giới khó tìm được bạn đời để kết hôn khi trưởng thành. Theo thống kê của Tổng cục Dân số nếu không có biện pháp can thiệp từ bây giờ thì 30 năm nữa sẽ có khoảng 4 triệu nam giới Việt Nam khó có khả năng kết hôn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nam giới, đặc biệt là nam giới có trình độ học vấn thấp, gia đình nghèo, sống tại các vùng khó khăn. Vì vậy, nó cũng có tác động đến trật tự an toàn trong xã hội, cơ cấu lao động trong tương lai và kinh tế đất nước.

Hiện nay, Việt Nam chưa phải đối mặt rõ ràng với hậu quả của việc lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Tuy nhiên, những bài học tử Trung Quốc và Ấn Độ là những nước trải qua vấn đề này trước Việt Nam hơn 20 năm đã chỉ ra rằng hậu quả này có thể xảy ra. Việt Nam cần xây dựng chính sách ứng phó kịp thời.

– Xin cho biết, nữ giới nên sinh con trong độ tuổi nào, vì sao? Ở nam giới, có khuyến cáo nào về độ tuổi sinh con ko? Có sự khác biệt nam, nữ về khuyến cáo này không? Sinh con khoẻ mạnh là trách nhiệm của cả hai giới, vậy nam giới cần lưu ý như thế nào về lối sống để có sức khỏe sinh sản tốt nhất? (Tùng Lâm, 37 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Độ tuổi sinh con tốt nhất của phụ nữ là từ 25 đến 35 tuổi. Điều này liên quan đến hoạt động của buồng trứng và chất lượng của các noãn bào là chính. Khi ở độ tuổi trẻ hơn hoặc cao hơn tỷ lệ các noãn bào bất thường nhiều hơn. Hơn nữa, liên quan tới chất lượng của tử cung, sức khỏe của người phụ nữ để có thể có thai, thai khỏe mạnh và sức khỏe của người mẹ khi mang thai cũng như sức khỏe cho cuộc đẻ.

Khi noãn bào bất thường thì khó thụ thai hoặc có thụ thai thì cũng dễ có nguy cơ sảy thai sớm hoặc thai bị dị tật.

Ở nam giới cũng vậy, khi tuổi càng cao thì tỷ lệ tinh trùng bất thường cũng nhiều lên. Tuy nhiên, ở nam giới tỷ lệ bất thường nhiều rõ rệt sau 60 tuổi nhất là ở những người có điều kiện làm việc không đảm bảo, môi trường độc hại hoặc có lối sống, thói quen uống rượu, hút thuốc lá…

Cả nam giới và nữ giới nên lựa chọn độ tuổi sinh con tốt nhất. Với nữ là từ 25-35 tuổi, nam từ 25 đến 50 tuổi. Nam giới cần tránh mắc các bệnh viêm nhiễm đường sinh dục, tránh thức đêm nhiều, không hút thuốc lá, rượu bia quá nhiều.

– Xin ông cho biết, ngày Quốc tế trẻ em gái năm nay chủ đề là gì? Ý nghĩa của chủ đề này? Và các nội dung truyền thông hưởng ứng Ngày quốc tế trẻ em gái (11/10/2020) (Tuyết Ngân, 30 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Như đã trao đổi ở trên, trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, nguyên nhân gốc rễ dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) là định kiến giới, từ tâm lý ưa thích con trai hơn con gái, vẫn luôn tồn tại mãnh liệt cho mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ. Tư tưởng đó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân và trở thành quan niệm truyền thống của người Việt Nam. Do đó, cần đẩy mạnh truyền thông nhằm thúc đẩy cộng đồng thực hiện các chính sách hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ nói chung, trẻ em gái nói riêng. Chủ đề ngày Quốc tế trẻ em gái năm nay (11/10/2020) là “Thúc đẩy bình đẳng giới góp phần giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh”.

Các nội dung truyền thông hưởng ứng Ngày quốc tế trẻ em gái:

– Phổ biến, tuyên truyền các văn bản, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước như: Luật bình đẳng giới; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Luật hôn nhân và gia đình nhằm thúc đẩy cộng đồng thực hiện các chính sách hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của trẻ em gái nói riêng và phụ nữ nói chung, đặc biệt là trẻ em gái ở các gia đình sinh con một bề là gái.

– Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về thực trạng, nguyên nhân và hệ lụy của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS). Vận động từng bước làm thay đổi nhận thức và tư tưởng lạc hậu về sinh con trai, con gái.

– Tuyên truyền về các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi như Pháp lệnh Dân số; Nghị định số 104/2013/NĐ ngày 16/9/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Pháp lệnh Dân số; Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế; Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2025; Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; Chương trình truyền thông Dân số đến năm 2030.

– Lợi ích của nam giới khi thúc đẩy bình đẳng giới? (Thanh Hà, 30 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Khi nói đến bình đẳng giới, nghĩa là chúng ta nói đến đảm bảo sự bình đẳng và phát triển công bằng cho tất cả mọi giới. Đặc biệt, nam giới cũng có rất nhiều lợi ích từ việc thúc đẩy bình đẳng giới. Những định kiến giới có từ lâu đời có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển không chỉ của phụ nữ mà của cả nam giới. Làm cho phụ nữ và nam giới không phát huy được hết khả năng của bản thân mình. Ví dụ như nam giới luôn được coi phải là người mạnh mẽ, trụ cột, kiếm tiền để lo cho gia đình của mình và phải thành đạt. Đây sẽ là áp lực vô cùng to lớn với nam giới đặc biệt trong xã hội đang phát triển như Việt Nam.

Khi nam giới không làm tròn mong đợi về giới này sẽ không được coi trọng. Hoặc nam giới không được yếu đuối, ủy mị, phải là chỗ dựa tinh thần cho các thành viên khác trong gia đình. Vì vậy, khi nam giới gặp phải khó khăn, trở ngại trong cuộc sống thường họ phải tự chịu một mình, không dám bộc lộ sự yếu đuối, mệt mỏi của bản thân.

Trong mối quan hệ vợ chồng, nam giới cũng luôn phải mạnh mẽ, khi họ có vấn đề về sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe tình dục họ sẽ mặc cảm. Nam giới không có con trai sẽ bị coi là yếu đuối, không bằng những người đàn ông khác… Có nhiều định kiến giới làm nam giới bị áp lực nặng nề, khó có thể phát huy hết khả năng của họ. Những chính sách can thiệp bình đẳng giới không chỉ giúp nâng cao vị thế phụ nữ mà con giúp nam giới thoát khỏi định kiến giới nặng nề.

– Như chúng ta vừa phân tích thì quan niệm “con trai mới là con của mình, còn con gái là con người ta”, chỉ con trai mới gánh vác trọng trách thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường, dẫn tới tỷ lệ sinh trai nhiều hơn gái là những định kiến ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta. Vậy theo Tiến sĩ Ánh thì làm sao xóa bỏ được quan niệm dường như đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người dân Việt Nam? (Quỳnh Anh, 30 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Rất khó xoá bỏ những định kiến những suy nghĩ những quan niệm dường như đã ăn vào tiềm thưc nhiều thế hệ của nhiều người dân Việt Nam. Cách làm của chúng ta đang là tuyên truyền kêu gọi và đưa các qui định cấm trong chẩn đoán xác định giới tính cũng có tác dụng phần nào. Chúng ta biết rằng để thay đổi định kiến phải dần dần và đôi khi cả một thế hệ và thực tế đời sống xà hội như hiện nay là bố mẹ về già phải dựa vào con cái thì dường như đó là chỗ dựa thêm cho cái lý lẽ cần phải đẻ con trai.

– Là nơi trực tiếp khám chữa và hỗ trợ người dân trong việc sinh đẻ, kế hoạch hóa gia đình, xin bác sĩ Ánh có thể đưa ra những kiến nghị để việc kiểm soát mất cân bằng giới tính được thực hiện tốt hơn? (Trần Lục, 35 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Để kiểm soát mất cân bằng giới tính tốt hơn vẫn là từ tuyên truyền để thay
đổi dần ý thức, định kiến của ngừoi dân, kiểm soát việc sinh con thứ 3 trở đi, kiểm soát các cơ sở có kỹ thuật chọn lọc giới tính.

– Kính gửi bà Quỳnh Anh, xin bà chia sẻ các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới của Quỹ Dân số Liên hợp quốc trong thời gian vừa qua tại Việt Nam? (THẢO, 34 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Trong hơn 10 năm qua, Quỹ Dân số Liên hợp quốc có rất nhiều hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới tại Việt Nam. Như, hỗ trợ Chính phủ Việt Nam xây dựng các chính sách, chương trình can thiệp dựa trên bằng chứng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực giới, giải quyết lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới…

Cụ thể, hiện nay chúng tôi đang hỗ trợ Bộ LĐTBXH rà soát 10 năm việc thực hiện bình đẳng giới, xây dựng chương trình quốc gia về phòng ngừa và ứng phó với bạo lực giới giai đoạn 2021-2025. Chúng tôi cũng hỗ trợ Bộ VHTT-DL trong quá trình đề xuất chỉnh sửa luật bạo lực gia đình. Đồng thời chúng tôi cũng hỗ trợ hội Nông dân, các tổ chức xã hội dân sự triển khai các chiến dịch Truyền thông về thúc đẩy bình đẳng giới.

Từ 2017, chúng tôi hỗ trợ tỉnh Quảng Ninh xây dựng và vận hành một trung tâm hỗ trợ nạn nhân bạo lực giới gọi là Ngôi nhà Ánh dương với hỗ trợ tài chính từ tổ chức KOICA. Đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 vừa qua, chúng tôi phối hợp với các cơ quan Chính phủ và tổ chức xã hội triển khai các can thiệp về nâng cao nhận thức của lãnh đạo và cộng đồng về sự gia tăng của bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái trong bối cảnh dịch bệnh, cũng như thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bạo lực…

Bà Quỳnh Anh chia sẻ Quỹ Dân số Liên hợp quốc có rất nhiều hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới tại Việt Nam.

– Dưới góc độ là nhà quản lý, xin ông Hoàng cho biết thời gian qua, ngành Dân số đã có những giải pháp như thế nào để giảm thiểu được tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang gia tăng ở Việt Nam hiện nay? (Minh Phú, 30 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Trước tình hình mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam xảy ra ngày càng nhanh và nghiêm trọng, ngày 23/3/2016, Thủ tưởng Chính phủ ban hành Quyết định số 468/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2025. Các hoạt động từ Trung ương đến địa phương đều tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ và giải pháp:

Thứ nhất, truyền thông nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi đối với công tác kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh:
– Cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin cho lãnh đạo các cấp chính quyền, tổ chức chính trị – xã hội và người có uy tín trong cộng đồng.
– Truyền thông cho các cặp vợ chồng, những người đứng đầu dòng họ và gia đình, nam nữ thanh niên chuẩn bị kết hôn và những người cung cấp dịch vụ có liên quan;
– Thực hiện giáo dục về giới, bình đẳng giới với nội dung, hình thức thích hợp cho từng cấp học;
– Nghiên cứu, thiết kế, xây dựng, sản xuất các tài liệu truyền thông; tổ chức các hội nghị, hội thảo, chuyên đề, các chiến dịch, sự kiện truyền thông về mất cân bằng giới tính khi sinh.

Thứ hai, xây dựng, thử nghiệm và thực hiện các chính sách hỗ trợ nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Xây dựng các chuẩn mực, giá trị xã hội phù hợp.

Thứ ba, nâng cao hiệu lực thực thi những quy định của pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh: Phổ biến, giáo dục những quy định pháp luật; hoàn thiện các thể chế, chính sách; tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; tăng cường các hoạt động đào tạo tập huấn.

READ  Bạn sinh vào tháng mấy, ý nghĩa tháng sinh của bạn là gì?

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tích cực tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện Đề án.

Bộ Y tế đã cụ thể hóa các nhiệm vụ của Đề án tại Quyết định số 1472/QĐ-BYT ngày 20/4/2016 ban hành Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2025, Quyết định số 3382/QĐ-BYT ngày 05/7/2020 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2020 và Công văn số 4111/BYT-TCDS ngày 05/7/2020 hướng dẫn triển khai Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Đến nay, đã có 62/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Đề án hoặc kế hoạch triển khai Đề án giai với các hoạt động bám sát hướng dẫn của Trung ương và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Các hoạt động của Đề án đã nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân, gia đình về vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh; đẩy mạnh sự tham gia của các bộ, ban, ngành có liên quan, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc triển khai thực hiện các giải pháp can thiệp nhằm khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh.

Sau 4 năm triển khai Đề án, tỷ số giới tính khi sinh đã giảm từ mức 112,8 bé trai/100 bé gái năm 2015 xuống còn 111,5 bé trai/100 bé gái năm 2019, khả năng cao đạt mục tiêu đề án vào năm 2020 là tỷ số giới tính khi sinh ở dưới mức 115 bé trai/100 bé gái và tiến tới đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức dưới 109 bé trai/100 bé gái vào năm 2030 theo mục tiêu của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới.

Trong thời gian tới, ngành dân số tiếp tục chú trọng triển khai một cách đồng bộ, đầy đủ các giải pháp trong Đề án mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2025, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 là đưa tỷ số giới khi sinh về mức cân bằng tự nhiên.

– Xin bác sĩ Ánh cho biết những hoạt động của bệnh viện đã, đang và sẽ triển khai nhằm tăng cường chất lượng dân số thủ đô trong thời gian qua và trong thời gian tới? (BanMai, 31 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Chất lượng dân số ở góc độ, vai trò của bệnh viện chuyên khoa phụ sản thì chủ yếu ở vấn đề thực hiện tư vấn sàng lọc tiền hôn nhân giúp các cặp đôi biết trước tình trạng sức khoẻ và di truyền cũng như cách như thế nào để có thai tốt nhất; sàng lọc và chăm sóc thai kỳ để đảm bảo thai nhi khoẻ mạnh phát triển tốt; sửa
chữa, loại trừ những dị tật, dị tật nặng bằng các quy trình sàng lọc tối ưu nhất hiện đại nhất cũng như những can thiệp vào bào thai nếu có thể.

Chất lượng sản khoa là chất lượng sơ sinh và sau đó chính là sức khoẻ thể chất tinh thần của thế hệ dân số. Bệnh viện phụ sản Hà Nội đang làm rất tốt về sản khoa và sơ sinh, các quy trình, phác đồ áp dụng tại bệnh viện là luôn cập nhật mới nhất tốt nhất theo yêu cầu của Bộ Y tế Việt Nam và các nước tiên tiến nhất. Đội ngũ thầy thuốc luôn được đào tạo, cập nhật theo các hướng dẫn mới nhất và máy móc trang thiết bị của bệnh viện luôn là những máy móc trang thiết bị hàng đầu thế giới. Điều đó giúp Bệnh viện Phụ sản Hà Nội xứng đáng là một mắt xích tin cậy trong cả hệ thống, làm nâng cao chất lượng dân số thủ đô và Việt Nam.

– Thưa bà Quỳnh Anh, hiện nay ở một số vùng nông thôn Việt Nam, nam giới trên 30 tuổi chưa lấy được vợ khá nhiều, phải chăng hậu quả của việc mất cân bằng giới tính khi sinh đã bắt đầu hiện hữu ở Việt Nam? (Mai Trung Hai, 25 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Thực ra, hiện nay chưa có nghiên cứu nào để xác định thực trạng vấn đề này như thế nào và nguyên nhân của nó là gì. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể có một số dự đoán:

Thứ nhất, thực tế giới trẻ hiện nay có xu thế kết hôn muộn chứ không phải không thể kết hôn để dành thời gian cho sự nghiệp.

Bên cạnh đó, như tại Trung Quốc, Hàn Quốc, có tình trạng mất cân bằng giới tính dẫn đến việc phải sang Việt Nam tìm vợ. Gây nên thực trạng thiếu hụt phụ nữ cục bộ ở một số địa phương. Nếu nam giới ở đó không di cơ sang nơi khác để tìm kiếm phụ nữ thì dễ gặp phải tình trạng này.

– Tôi không quan tâm đến giới tính thai nhi nhưng gia đình nhà chồng muốn chọn lọc giới tính. Tôi phải làm thế nào? (Ngọc Thi, 28 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Thực ra câu chuyện của bạn không phải cá biệt, rất nhiều người phụ nữ rơi vào tình trạng này. Và để giải quyết vấn đề này không phải dễ dàng, không phải giải quyết ngay được, cần có sự hỗ trợ của nhiều người.

Bản thân bạn phải cứng rắn, quyết đoán với quan điểm của mình. Con trai hay con gái đều tốt, quan trọng là giáo dục con cho tốt. Nếu người chồng đồng quan điểm với bạn thì câu chuyện dễ hơn. Vợ chồng cùng thuyết phục gia đình chồng bằng cách đưa ra các tấm gương gia đình sinh con một bề nhưng vẫn hạnh phúc, thành đạt. Nếu người chồng cũng không ủng hộ bạn thì cần tìm người có tầm ảnh hưởng (Họ hàng, làng xóm, nhà lãnh đạo ở địa phương) để thuyết phục chồng và gia đình chồng bạn.

Có điều lưu ý là việc này cần thực hiện kiên trì và có dẫn chứng thuyết phục từ thực tế.

– Thưa ông Ánh, trên thực tế nhiều người sinh 2 con gái tìm mọi cách để sinh thêm con thứ 3 là con trai. Xin ông cho biết nguy cơ sinh ảnh hưởng đến sức khỏe của những bà mẹ này như thế nào? (Hà Cúc, 32 tuổi)

– Ông Nguyễn Duy Ánh:

Mỗi một lần mang thai, mỗi một lần sinh đẻ là một lần thử thách ghê gớm với người phụ nữ. Câu nói chửa cửa mả không hề sai. Mỗi lần mang thai và nhất là khi phải mang nhiều lần rủi ro lại tăng lên. Mang thai sinh nở lấy đi nhiều thời gian sự mệt mỏi và đôi khi cả tính mạng người phụ nữ. Vậy nên thiên chức làm mẹ thật vĩ đại nhưng cũng nên chỉ đủ và đúng, có lẽ theo như hiện nay 2 con là đẹp.

– Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực ở các khía cạnh ban hành chính sách, truyền thông, xây dựng pháp luật để kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh nhưng tỷ lệ bé trai và bé gái trên cả nước và ở một số tỉnh thành giảm rất ít, sự kỳ thị thai nhi gái, trẻ em gái ít được tạo điều kiện hơn trẻ em trai vẫn tồn tại. Ông lý giải như thế nào về tình trạng này? (Lý Phúc Vinh, 35 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy khi xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, Chính phủ các nước đều có những chính sách và can thiệp tích cực nhằm đưa tỷ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên. Các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn độ đã xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính sau sinh ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, đến hiện tại tỷ số giới tính khi sinh của Trung Quốc vẫn duy trì ở mức cao, vẫn ở mức 111,9 bé trai/100 bé gái (2017). Tại Ấn Độ mức độ mất cân bằng giới tính có thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tỷ số giới tính khi sinh vẫn ở mức 111,6 bé trai/100 bé gái giai đoạn 2015 – 2017. Sau một thời gian dài, phải đến năm 2000, Hàn Quốc mới khống chế được tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh và đưa tỷ số này về mức cân bằng tự nhiên.

Trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, nguyên nhân gốc rễ dẫn đến vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh chính là định kiến giới, tâm lý ưa thích con trai hơn con gái vẫn luôn tồn tại mãnh liệt trong mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng, mỗi gia đình và mỗi dòng họ. Tư tưởng đó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân và trở thành quan niệm truyền thống của người Việt Nam. Do đó, để giải quyết vấn đề này, cần triển khai các giải pháp lâu dài và bền bỉ nên việc mang lại những hiệu quả nhanh chóng là khó có thể xảy ra.

Ông Vũ Hoàng cho biết Việt Nam đang có nhiều chính sách để giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính sau sinh.

– Các chuyên gia xin cho biết các hành vi nào bị nghiêm cấm trong thực hiện bình đẳng giới? (Mai Ánh, 37 tuổi)

– Bà Hà Thị Quỳnh Anh:

Hiện nay Việt Nam đã có luật bình đẳng giới được thông qua từ 2006 và có hiệu lực từ 2007. Trong luật có quy định rõ ràng hành vi nghiêm cấm và biện pháp phạt. Bạn có thể tìm đọc luật bình đẳng giới để tìm hiểu thông tin chi tiết.

– Nghị định 117/2020 hiệu lực từ 15/11/2020, xin cho biết một số quy định mới cần lưu ý liên quan lĩnh vực Dân số, trong đó xử lý khá mạnh hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, xin cho biết một số quy định mới cần lưu ý? (Thương Nguyễn, 42 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Nghị định số 117/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Y tế vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 28/9/2020 (có hiệu lực từ ngày 15/11/2020), tại Mục 6 của Nghị định quy định hành vi vi phạm hành chính về dân số gồm 07 Điều (từ Điều 96 đến Điều 102), trong đó có một số quy định mới cần lưu ý như sau:

1. Tăng mức phạt tiền đối với các hành vi: Vi phạm quy định về tuyên truyền, phổ biến, tư vấn phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn; Vi phạm quy định về lựa chọn giới tính thai nhi; Vi phạm các quy định về cưỡng bức thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Cụ thể:

Tại Điều 97 quy định:
Phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
– Tuyên truyền, phổ biến phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn.
– Tư vấn phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn
Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
– Bán, cho thuê, phân phát, đưa lên mạng internet xuất bản phẩm, bài viết có nội dung về phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn.
– Đăng, phát thông tin có nội dung về phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn.

Tại Điều 99 quy định:
– Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần để ép buộc người khác phải áp dụng phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn.
– Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng đối với hành vi dùng vũ lực ép buộc người khác phải áp dụng phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn.
– Phạt tiền từ 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Chỉ định hoặc hướng dẫn sử dụng thuốc để có được giới tính thai nhi theo ý muốn; cung cấp dụng cụ, thuốc, vật tư để có được giới tính thai nhi theo ý muốn; nghiên cứu các phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.

Tại Điều 101 quy định: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong các hành vi: Không cung cấp phương tiện tránh thai miễn phí cho người thuộc diện được cấp theo quy định của pháp luật và có đăng ký sử dụng phương tiện tránh thai miễn phí; Có lời nói hoặc hành động xúc phạm danh dự, nhân phẩm người sử dụng biện pháp tránh thai, người sinh toàn con trai hoặc sinh toàn con gái.

2. Tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi: chỉ định hoặc hướng dẫn sử dụng thuốc để có được giới tính thai nhi theo ý muốn; cung cấp dụng cụ, thuốc, vật tư để có được giới tính thai nhi theo ý muốn; nghiên cứu các phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.

3. Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược hoặc đình chỉ hoạt động kinh doanh đối với cơ sở có hoạt động dược không vì mục đích thương mại trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi cung cấp hóa chất, thuốc để loại bỏ thai nhi mà biết rõ người đang mang thai muốn loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.

– Chính phủ vừa ban hành Nghị định 117 xử phạm trong lĩnh vực y tế, trong đó xử lý khá mạnh hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Ông đánh giá việc này như thế nào? Công tác giám sát cần thực hiện như thế nào? (Thương Nguyễn, 42 tuổi)

– Ông Phạm Vũ Hoàng:

Hoàn thiện pháp luật là một trong những giải pháp quan trọng để xử phạt vi phạm đối với các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Việc tăng các mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm để kiểm soát việc mất cân bằng giới tính khi sinh là cần thiết và mang tính khả thi, tạo nên tính răn đe, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

Các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo chức năng nhiệm vụ được giao có trách nhiệm tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật trong lĩnh vực này, bao gồm thanh tra, kiểm tra, giám sát. Công tác giám sát cần thực hiện thường xuyên, có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng để đánh giá kết quả thực hiện, phát hiện những thiếu sót, tồn tại, đồng thời biểu dương những thành tích, kết quả đạt được; làm cơ sở cho việc kiến nghị bổ sung cơ chế, chính sách pháp luật, tiến tới bảo đảm cân bằng giới tính khi sinh.